The last part.
Và, thật vậy, đó có thể nói cũng là một loại biển. Mẩu đất rộng bạt ngàn đầy mùi thơm của loại cây đặc biệt được dùng trong mùa thánh, và những bụi holly có lá đầy gai. Những trái dâu dại màu đỏ và sáng bóng như những cái chuông của người Trung hoa: đàn quạ đen bay vụt phía trên kêu la rối rít. Sau khi nhét vào túi vải đeo lưng bao nhiêu là cây lá xanh và hoa trái đỏ đủ để trang điểm cả chục cái cửa sổ, chúng tôi tìm chọn một cái cây. “Cây này tốt đấy,” bạn tôi nói thú vị, “cao gấp hai lần một thằng bé. Vì thế thằng bé không thể trộm cái ngôi sao.” Cây chúng tôi chọn có chiều cao gấp hai lần chiều cao của tôi. Cái cây to và khỏe đã chịu nổi ba mươi nhát chém của cái rìu trước khi nó ngã với một tiếng kêu thảm thiết. Kéo nó đi sền sệt như một con mồi chúng tôi săn được, chúng tôi bắt đầu chuyến trở về mà đường còn rất xa. Cứ vài mét, chúng tôi phải bỏ nó xuống và ngồi thở. Nhưng chúng tôi có sức khỏe của những người thợ săn chiến thắng: đó và cái sinh lực của cái cây, mùi thơm băng giá làm chúng tôi hồi sinh, và thúc giục chúng tôi tiếp tục. Rất nhiều người ngợi khen chúng tôi khi chúng tôi về làng buổi chiều hôm ấy trên con đường đất đỏ; nhưng bạn tôi rất láu lĩnh và không hứa hẹn gì cả. Khi những người qua đường khen ngợi kho tàng của chúng tôi đang ngồi xổm trên con bọ: Cây thông đẹp quá và tìm thấy nó ở đâu thế? “Chỗ rất xa,” bà nói nhỏ, không rõ ràng. Một lần có một chiếc xe ngừng lại và bà vợ lười biếng của ông chủ nhà máy xay giàu có nghiêng người ra nhõng nhẽo: “Cho hai người một số tiền cho cái cây già đó.” Thông thường bạn tôi rất sợ phải từ chối bất cứ lời yêu cầu nào và bất cứ ai; nhưng lần này bà lắc đầu ngay tức thì: “Chúng tôi chẳng lấy đồng nào cả.” Bà vợ ông chủ nhà máy xay cứ kiên quyết. “Một đồng, không chịu thì tôi đi đấy nhé! Thêm năm mươi xu. Đây là lần cuối. Chúa ơi, bà kia, bà có thể tìm một cái cây khác.” Bạn tôi trả lời nhẹ nhàng: “Không phải cái gì cũng có cái thứ hai.”
Về đến nhà: Queenie nằm ẹp xuống cạnh bếp lửa và ngủ cho đến ngày mai, ngáy to như người ta.
Trong một cái rương cũ cất trên gác xép có chứa: một cái hộp trước đây dùng để chứa giày trong ấy bây giờ đựng đầy lông đuôi chồn ermine (đã được gỡ ra từ cái áo khoác của một bà khách có vẻ rất khác thường đã có lần thuê một phòng trong nhà), những chuỗi kim tuyến mỏng manh biến thành màu hoàng kim vì cũ kỹ, một ngôi sao bằng bạc, một cuồn dây ngắn đã sờn, và những bóng đèn như những viên kẹo trông đầy vẻ nguy hiểm. Những món đồ dùng để trang trí trông sẽ rất tuyệt, có thể được dùng với tất cả tiềm năng của chúng, chỉ tiếc là tiềm năng này cũng chẳng có mấy hơi, bạn tôi muốn cây giáng sinh của chúng tôi sẽ sáng rực “như là cửa sổ của một nhà theo đạo Baptist,” trĩu nặng với những mãnh tuyết đồ dùng để trang trí. Nhưng chúng tôi cũng chẳng có tiền để mua những đồ trang trí rực rỡ của Nhật bán ở những tiệm bán đồ lặt vặt giá từ năm xu đến mười xu, vì thế chúng tôi làm những điều mà chúng tôi đã từng làm là ngồi ở bàn ăn, hết ngày này qua ngày khác, với kéo, bút màu và một chồng giấy thủ công nhiều màu. Chúng tôi vẽ hình mẫu và bạn tôi cắt những hình mẫu này ra. Có rất nhiều hình mèo, và cá nữa (bởi vì chúng dễ vẽ), vài quả táo, vài quả dưa hấu, vài thiên thần có cánh được cắt từ giấy bạc gói kẹo sô cô la Hershey chúng tôi đã để dành. Chúng tôi dùng kim băng để cài những hình chúng tôi đã sáng tạo lên cây; và cuối cùng, chúng tôi trang điểm cây giáng sinh bằng cách rải lên cành những mảnh bông gòn cho giống như tuyết (chúng tôi hái bông gòn ngoài đồng từ tháng Tám để dành cho việc này). Bạn tôi, ngắm nghía kết quả, chắp hai tay lại với nhau. “Nói thật nhé, Buddy. Có phải là chúng ngon mắt đến độ làm cho mình thèm ăn tươi nuốt sống chúng không chứ?” Queenie tìm cách ngốn ngấu một thiên thần làm bằng giấy bạc gói kẹo.
Sau khi bện thành vòng và kết nơ lên những vòng lá Giáng sinh treo trên tất cả các cửa sổ phía trước nhà, công việc tiếp theo của chúng tôi là làm quà cho thân nhân. Những cái khăn quàng nhuộm màu bằng phương pháp thủ công cho quí vị phụ nữ, và cho phái nam chúng tôi pha chế một hỗn hợp nước chanh nấu với licorice và hào vào thuốc aspirin dạng lỏng pha đường để dùng cho mỗi khi có “triệu chứng bị cảm đầu tiên sau khi đi săn.” Nhưng khi đến lúc chúng tôi cần làm quà cho nhau thì chúng tôi tách riêng ra để giữ bí mật. Tôi muốn mua cho bà một con dao có cán màu ngọc trai, một cái radio, và một cân trái anh đào có bọc chocolate (chúng tôi có lần được nếm thử và bà thể: “U có thể ăn món đó suốt đời, Buddy, Chúa ạ, đúng vậy, chắc chắn như thế, u không có nhắc đến tên Chúa khơi khơi đâu”). Nhưng thay vì cho bà những thứ mà bà ao ước, tôi chỉ có đủ khả năng làm một con diều. Bà muốn cho tôi một chiếc xe đạp (bà nói một vài lần: “Uớc gì u có khả năng, Buddy. Không thể có được điều mình mơ ước trong đời đã là chuyện bất hạnh, nhưng càng đáng buồn hơn khi mình không thể tặng cho người thân món quà mình muốn tặng. Một ngày nào nó, u hy vọng là u có thể làm được chuyện ấy, Buddy. Em hãy để ý tìm chiếc xe nào em thích. Đừng hỏi u sẽ làm gì hay làm cách nào. Có lẽ u sẽ ăn trộm nó”). Tuy thế, tôi khá chắc chắn là bà cũng sẽ làm cho tôi một con diều – cũng như hồi năm ngoái, còn năm kia: chúng tôi tặng nhau cái giàn ná. Tất cả những thứ này tôi đều hoan nghênh. Bởi vì hai chúng tôi là những người thả diều hạng nhất. Chúng tôi nghiên cứu hướng gió thiện nghệ như là các anh thủy thủ; bạn tôi, tài giỏi hơn tôi, bà có thể làm cho con diều bay lên khi không có đủ gió để chở chút mây nào cả.
Buổi chiều của ngày trước ngày lễ Giáng sinh, chúng tôi vơ vét mấy đồng tiền năm xu hùn với nhau và đi đến tiệm bán thịt để mua món quà cho Queenie theo thông lệ, một cái xương bò thật xịn. Cái xương, được gói bằng giấy có nhiều hình khôi hài được đặt rất cao gần ngôi sao bằng bạc. Queenie biết là khúc xương ở đấy. Nó ngồi ở gốc cây, nhìn lên với một vẻ tham lam mê đắm: khi đến giờ đi ngủ nó cũng không chịu nhúc nhích. Cái chộn rộn của nó cũng tương đương với sự phấn khích của tôi. Tôi đá tung mền và đổi mặt gối làm như thể đó là một đêm mùa hè nóng bức như thiêu đốt. Đâu đó có tiếng gà gáy sáng, nhầm lẫn, vì mặt trời vẫn còn ở phía bên kia của quả địa cầu.
“Buddy, em có còn thức không?” Đó là bạn tôi nói vọng qua từ bên kia phòng của bà sát bên cạnh phòng tôi; và một chỉ một thoáng sau bà đã ngồi trên giường tôi tay cầm ngọn nến. “Giời ạ, u chẳng ngủ được tí nào cả,” bà tuyên bố. “Trí óc u cứ như mấy con thỏ nhảy lăng quăng loạn xạ. Buddy, em nghĩ là bà Roosevelt sẽ đem bánh trái cây của chúng ta ra dùng trong bữa ăn tối?” Chúng tôi co ro trên giường và bà nắm tay tôi như thể muốn nói u yêu em lắm. “Có vẻ như bàn tay của em lúc trước nhỏ hơn nhiều. U đoán là u không thích nhìn thấy em lớn lên. Nhưng mà khi em lớn lên chúng ta vẫn là bạn với nhau chứ?” Tôi nói chúng ta sẽ luôn luôn là bạn của nhau. “Nhưng mà u cảm thấy không thoải mái chút nào cả, Buddy. U thèm cho em một chiếc xe đạp vô cùng. U cố tìm cách bán cái cameo, đồ nữ trang cài áo, mà bố của u đã cho. Buddy” – bà ngập ngừng, như thể xấu hỗ - “U làm cho em một con diều.” Rồi tôi thú nhận tôi cũng làm một con diều cho bà; và chúng tôi cười òa. Cây nến đã cháy quá ngắn nên không còn cầm được nữa. Rồi nó tắt, để lộ ánh sao trên trời, những vì sao gắn trên cửa sổ như một bài hát giáng sinh, và dần dần ánh sáng ban ngày cắt đứt sự im lặng. Rất có thể chúng tôi đã ngủ quên; nhưng ánh sáng hừng đông như nước lạnh dội vào mặt chúng tôi: chúng tôi thức giấc, mắt mở to, và đi lanh quanh trong khi chờ những người trong nhà thức giấc. Đầy cố ý, bạn tôi đánh rơi cái ấm nước lên nền nhà. Lần lượt mọi người trong nhà thức giấc, nhìn chúng tôi với vẻ gườm gườm như muốn giết cả hai, nhưng vì hôm nay là ngày Giáng sinh họ không thể làm chuyện ấy. Trước nhất là một bữa ăn sáng thật thịnh soạn có tất cả những món bạn có thể tưởng tượng – từ flapjacks (bánh bột chiên) và sóc chiên cho đến cháo bột bắp và sáp non của mật ong. Các món này làm cho tất cả mọi người thích thú ngoại trừ bạn tôi và tôi. Thành thật mà nói, chúng tôi mất kiên nhẫn phải chờ đợi được cho phép mở quà đến độ chúng tôi không thể ăn.
Ha, tôi khá thất vọng. Ai mà không thất vọng chứ? Mấy đôi vớ, áo mặc đi học thánh kinh ngày Chủ nhật, vài cái khăn tay, cái áo len cũ, và một năm báo tôn giáo cho trẻ con được trả tiền trước, tờ The Little Shepherd. Nó làm tôi sôi máu. Thật như vậy.
Bạn tôi được quà khấm khá hơn. Món quà tốt nhất của bà là một túi quýt. Tuy thế, món quà là bà có vẻ hãnh diện nhất là cái khăn quàng bằng len trắng do người chị đã lập gia đình của bà đan cho. Nhưng bà nói món quà bà yêu nhất là con diều tôi đã làm cho bà. Và con diều này rất đẹp; mặc dù nó không đẹp bằng con diều bà làm cho tôi, nó màu xanh và có lấm tấm điểm vàng và những ngôi sao màu xanh lá cây dành cho đứa trẻ ngoan có hạnh kiểm tốt; còn hay hơn nữa là, tên của tôi được vẽ lên ấy, “Buddy.”
“Buddy, có gió lên rồi.”
Gió lên, và sẽ không có gì xảy ra cho đến khi chúng tôi chạy ra đồng cỏ tít phía dưới đồi. Đó là nơi Queenie đã chôn những thửa xương để nó gặm (và đây cũng là chỗ, vài mùa đông sau đó, Queenie cũng sẽ được chôn). Ở đấy, đứng trong cỏ mọc rất khỏe cao đến thắt lưng, chúng tôi thả dây cột diều, cảm thấy chúng vặn vẹo ở đầu dây như những con cá bay trên trời khi chúng bơi vào trong gió. Thỏa mãn, ấm người nhờ nắng, chúng tôi nằm dài trên bãi cỏ, lột quýt ăn và xem những con diều nhào lộn. Không mấy chốc tôi đã quên những món quà tôi không thích là mấy đôi vớ và cái áo len cũ. Tôi sung sướng như thể chúng tôi đã thắng năm chục ngàn giải Độc Đắc của cuộc thi đặt tên cà phê.
“Ồ, sao mà tôi ngu tối thế này!” bạn tôi kêu lên, bất thình lình tỉnh lại, như một người đàn bà chợt nhớ là mình bỏ quên bánh bích quy trong lò. “Em có biết u luôn luôn nghĩ đến điều gì không?” bà hỏi bằng một giọng như mới khám phá chuyện gì mới lạ và rất nghiêm trang, nhưng đó không phải là điều tôi muốn nhấn mạnh. “U luôn luôn nghĩ mình phải giữ cho mình một thân thể không bệnh hoạn hoặc đang chết dần mòn trước khi mình được gặp Chúa. Và u tưởng tượng rằng khi Ngài đến, cũng giống như chúng ta nhìn qua cửa sổ của một nhà theo đạo Baptist: xinh đẹp như những mẫu kính màu với mặt trời xuyên qua, chiếu sáng đến độ bạn không biết trời đang tối. Điều này làm u thấy dễ chịu: nghĩ rằng ánh sáng ấy đã mang đi tất cả những điều tăm tối đáng sợ. Nhưng u đánh cuộc là điều đó sẽ không bao giờ xảy ra. U chắc chắn là vào lúc cuối đời thân thể người ta sẽ nhận ra rằng Chúa đã tự bộc lộ. Bằng cách dàn xếp cho mọi chuyện xảy ra như đã xảy ra.” – tay bà vẽ những vòng tròn như thể gom lại tất cả các đám mây, hai con diều, đồng cỏ và Queenie đang cào đất phía trên mẩu xương của nó – “nhìn thấy tất cả những thứ đã được luôn luôn hiện diện, là đã nhìn thấy Chúa. Và đối với u, u có thể lìa bỏ thế gian này với những điều u nhìn thấy.”
Đó là lần Giáng sinh cuối cùng chúng tôi bên nhau.
Cuộc đời đã chia rẽ chúng tôi. Những người tự phụ là Hiểu Biết Nhất đã quyết định gởi tôi đi học trường Thiếu sinh quân. Và sau đó là những chuỗi ngày khốn khổ nghe tiếng còi toe toe như ở nhà tù, hay những tiếng còi báo thức rất bực mình ở trại hè. Tôi cũng có nhà mới nhưng điều này chẳng đáng kể. Nhà là nơi bạn tôi ở mà tôi không bao giờ về thăm được.
Và bà ở nơi ấy, lanh quanh trong nhà bếp. Đơn độc với Queenie. Rồi chỉ còn lại một mình. (“Buddy thân mến,” bà viết thư bằng nét chữ tháu thô rất khó đọc, “hôm qua con ngựa của Jim Macy đã đá Queenie một cái rất nặng. Em nên mừng là nó chẳng đau đớn lâu. U quấn nó bằng một tấm khăn vải mịn và lấy con bọ đẩy nó đến đồng cỏ Simpson để cho nó có thể chơi với tất cả những khúc xương của nó . . .”). Chừng vài năm sau cũng vào tháng Mười Một, bà tiếp tục nướng bánh trái cây một mình; không nhiều như trước, nhưng vẫn nướng bánh: và dĩ nhiên, bà luôn luôn gởi cho tôi “cái ngon nhất trong loạt bánh này.” Trong mỗi lá thư bà cũng kèm theo một đồng tiền mười xu quấn bằng giấy đi cầu: “Em hãy đi xem một cuốn phim rồi viết thư kể lại cho tôi nghe.” Nhưng dần dần, những lá thư sau đó bà nhầm lẫn tôi với người bạn thời xưa, người cũng có tên là Buddy đã chết vào một năm nào đó trong những năm 1880; rồi càng lúc càng nhiều hơn những khi bà nằm mãi trên giường chứ không chỉ có ngày mười ba: rồi có một buổi sáng tháng Mười Một lại đến, một buổi sáng mùa đông cây không còn lá và cũng không có tiếng chim, bà không còn đủ sức để tự ngồi dậy và kêu lên: “Ồ đã đến lúc làm bánh trái cây rồi!”
Và khi điều này xảy ra, tôi đã biết trước. Mẩu nhắn tin này chỉ xác nhận một mảng tin mà huyết quản của tôi đã bí mật nhận được, tôi có cảm tưởng như một phần thân thể của tôi bị cắt đứt lìa, bỏ rơi tôi như một con diều đứt dây. Đó là lý do, khi tôi băng ngang sân trường một buổi sáng đặc biệt trong tháng Mười Hai, tôi cứ tìm kiếm mãi trên bầu trời. Như thể là tôi biết trước sẽ được nhìn thấy, thay vì đó là hai trái tim, sẽ có một đôi diều bị đứt dây đang hối hả bay về hướng thiên đàng.
Recent Comments