Bản dịch truyện ngắn A Christmas Memory
Tác giả: Truman Capote
Anonymouswish chuyển ngữ
Sơ lược về tác giả:
Truman Capote được sinh ra ở New Orleans, Louisiana ngày 30 tháng Chín năm 1924 và mất ngày 25 tháng Tám năm 1984. Có khoảng 20 tác phẩm của Truman Capote đã được chuyển thành phim và kịch bản. Tác phẩm được biết đến nhiều nhất là Breakfast at Tiffany, và Cold Blood. Ông là bạn thân của Harper Lee, tác giả quyển How to Kill a Mockingbird và bà đã dùng ông làm người mẫu cho nhân vật Dill trong tác phẩm của bà. Ông bắt đầu viết rất sớm. Vào năm mười một tuổi ông đã chuyên chú viết ba giờ đồng hồ một ngày. Khi ông được bốn tuổi, bố mẹ ông ly dị và mẹ ông gửi ông về Monroeville, Alabama ở với một người trong họ. Đó là bà u già Rumbley Faulk. Truman thường gọi bà là Sook. Ngày 25 tháng Tám, trước khi chết, những lời cuối cùng của ông là “Em là Buddy đây mà,” và “Em lạnh quá.” Buddy là tên bà u già dùng để gọi Truman.
Mùa Giáng Sinh trong ký ức
Hãy tưởng tượng một buổi sáng vào cuối tháng Mười Một. Một buổi sáng mùa đông của hơn hai mươi năm trước. Hãy tưởng tượng căn bếp của một gian nhà cũ khá rộng ở miền quê. Điểm chính của căn bếp là cái bếp lò màu đen rất to; và thêm vào đó là một cái bàn tròn, lò sưởi với hai cái ghế xích đặt trước mặt lò sưởi. Và ngày hôm nay là ngày đầu tiên cái lò sưởi bắt đầu lên tiếng gầm gừ chào mùa đông.
Một người phụ nữ tóc trắng bóng đang đứng cạnh cửa sổ nhà bếp. Bà mang giày đánh quần vợt, và một cái áo len màu xám đã nhão xệ đến mất cả hình dáng bên trên một cái áo Calico, có váy rộng loại mùa hè có hoa. Bà nhỏ người và nhanh nhẹn như một con gà mái bantam, nhưng vì khi còn bé bà bị bệnh một thời gian rất lâu nên lưng bà bị còng trông rất tội nghiệp. Gương mặt bà rất đặc biệt – có nét giống khuôn mặt của Lincoln, răn reo, khắc khổ, nhuộm nắng và gió, mỏng manh gầy, đôi mắt của bà có màu sherry và đầy vẻ nhút nhát. “Xem kìa,” bà kêu lên, hơi thở của bà như khói phà trên khung kính của cửa sổ, “Đã đến lúc làm bánh trái cây!”
Bà đang nói chuyện với tôi. Tôi mới bảy tuổi còn bà chừng hơn sáu mươi. Bà là chị họ xa của mẹ tôi, và chúng tôi sống chung với nhau – đã từ lâu trước khi tôi bắt đầu có trí nhớ. Có nhiều người khác cũng ở chung nhà, cũng là họ hàng; và mặc dù họ rất có quyền hành đối với chúng tôi và hay bắt nạt làm chúng tôi khóc, chúng tôi không mấy để tâm chú ý đến họ. Chúng tôi là bạn thân với nhau. Bà gọi tôi là Buddy (Buddy cũng có nghĩa là bạn thân) để tưởng nhớ đến một chú bé trước đây đã là bạn thân của bà. Cái người tên Buddy này đã chết lâu lắm rồi từ một năm nào đó trong những năm 1880, khi bà hãy còn là một cô bé. Đến bây giờ bà vẫn là một cô bé.
“U đã biết từ lúc trước khi u thức giấc,” bà nói, quay lưng rời cửa sổ với một vẻ thích thú đong đầy trong mắt. “Tiếng chuông ở tòa án nghe rất lạnh và rất rõ. Và không nghe tiếng hót của chim bởi vì chúng đã bay cả về miền đất ấm. Ồ, Buddy, đừng có ngốn bánh bich quy nữa đi lấy cái xe con bọ. Và tìm hộ cho u cái mũ. Chúng ta phải nướng ba mươi tấm bánh.”
Năm nào cũng thế: khi một buổi sáng tháng Mười Một đến, bà bạn tôi, như thể việc tưởng tượng đến lễ mừng Giáng Sinh đã làm bà nổi hứng và châm dầu vào trái tim đang cháy bỏng của bà, tuyên bố: “Đã đến lúc làm bánh trái cây rồi, đi lấy cái xe con bọ, và tìm hộ u cái mũ.”
Cái mũ đã được tìm thấy, đó là một cái nón rơm có vành có kết hoa hồng bằng nhung đã phai màu: cái mũ này trước kia thuộc về một người trong họ rất yêu thích thời trang. Hai chúng tôi, cùng đẩy con bọ (chiếc xe dùng để đẩy em bé) đã cũ kỹ ọp ẹp, ra khỏi vườn và vào rừng pecan. Cái con bọ này là của tôi, được dùng để đẩy tôi khi tôi mới sinh ra. Nó làm bằng nan tre, đã bắt đầu bung mối, và các bánh xe đã ọp ẹp liêu xiêu như chân người say rượu. Nhưng đây là một vật dụng rất trung thành; mùa xuân, chúng tôi đẩy nó vào trong rừng và chất đầy hoa, rau thơm, gia vị, và những cành dương xỉ dại để cắm vào bình hoa ngoài hàng hiên; mùa hè, chúng tôi chất đầy những đồ để đi picnic và những chiếc cần câu làm bằng cây mía tranh rồi đẩy nó đến tận bờ suối; mùa đông nó cũng được dùng: làm một chiếc xe tải chở củi đốt lò sưởi từ ngoài sân vào trong bếp, làm cái giường ấm áp cho Queenie, con chó đốm hai màu cam và trắng đã chịu đựng rất nhiều cơn nóng giận của người trong nhà và hai lần bị rắn rung chuông cắn. Queenie đang chạy lon ton bên cạnh xe.
Ba giờ đồng hồ sau chúng tôi trở lại bếp, kéo theo xe đầy những hạt pecan rụng vì gió. Lưng chúng tôi mỏi nhừ vì lom khom nhặt chúng: rất khó tìm (bởi vì khi đến mùa chủ nhân đã cho rung cây và bán hạt, và chúng tôi không phải là chủ nhân) bởi vì chúng trốn dưới đám lá, bị đóng giá, và che lấp dưới cỏ đầy gian đối. Rắc rắc, tiếng vỏ bị bóc nghe vui tai, những tiếng sấm nho nhỏ khi vỏ pecan bị vỡ và một đống hạt nhân màu ngà, có vị ngọt và béo chất đầy trong một cái tô bằng thủy tinh trắng đục như màu sữa. Queenie cứ úng ắng đòi ăn và bạn tôi thỉnh thoảng nhón cho nó một miếng, mặc dù cứ nhất định bắt tôi và bà phải nhịn. “Mình phải nhịn, Buddy. Nếu chúng ta bắt đầu ăn chúng ta sẽ không thể nào ngừng lại. Và từng chỗ này không đủ cho ba mươi cái bánh.” Bóng tối dần dần tràn ngập căn bếp. Hoàng hôn biến cửa sổ thành tấm gương: bóng chúng tôi phản chiếu kết hợp với vầng trăng đang lên khi chúng tôi làm việc bên cạnh lò sưởi nhờ vào ánh sáng của lò sưởi. Cuối cùng, khi vầng trăng lên cao, chúng tôi ném cái vỏ cuối cùng vào trong lửa và, cùng với tiếng thở phào của chúng tôi, cái vỏ này bén lửa rồi cháy bùng lên. Trong xe không còn hạt pecan nào, cái tô chứa ruột pecan đã đầy đến mép.
Chúng tôi ăn tối bằng bánh bích quy nguội, thịt ba rọi muối lát mỏng chiên, và mức dâu đen và bàn chuyện ngày mai. Ngày mai chúng tôi sẽ làm công việc mà tôi thích nhất: mua nguyên liệu. Trái anh đào và chanh rừng, gừng, vanilla, thơm đóng hộp, da heo khô, nho khô, walnut, và rượu whiskey, và ô, rất nhiều bột, bơ, rất nhiều trứng, gia vị, bột mùi: tại sao, chúng tôi sẽ cần một con ngựa nhỏ để kéo con bọ về.
Trước khi mua những thứ này chúng tôi cần phải toan tính lấy đâu ra tiền. Cả hai chúng tôi đều không có tiền. Thỉnh thoảng chúng tôi có một ít tiền do những người trong nhà thỉnh thoảng cho (mười xu đã là một món tiền lớn); hoặc là chúng tôi làm những việc lặt vặt để kiếm tiền: như bán đồ ve chai lặt vặt, bán những hộp dâu đen chúng tôi tự hái, vài lọ mứt trái cây làm bằng táo hay đào, hái hoa cho các nhà làm đám táng hay đám cưới. Có một lần chúng tôi thắng giải 70 – 9, được năm đô la, trong một cuộc thi đá bóng toàn quốc. Không phải là chúng tôi hiểu biết rất nhiều về bóng đá mà bởi vì chúng tôi hy vọng thu được tiền thắng giải vì thế chúng tôi tham dự bất cứ cuộc tranh tài nào mà chúng tôi nghe đến: bây giờ chúng tôi đang nhắm vào giải thưởng độc đắc năm chục ngàn đô la dành cho những ai có thể tìm ra một cái tên hay nhất cho một loại cà phê mới (chúng tôi đề nghị đặt tên là “A.M.”; và sau khi suy nghĩ, bạn tôi muốn tránh xúc phạm đến Chúa, nên khẩu hiệu dự giải được đổi thành “A. M.! Amen!”).
Nói thật, chỉ có một việc làm mà chúng tôi đã thu được tiền, đó là thành lập một viện bảo tàng bỏ túi trưng bày điều Vui và chuyện Sợ ở sân sau nhà trong căn lều nhỏ bằng gỗ hai mùa hè trước đây. Điều Vui là tập hợp những tấm ảnh của Washington và New York chúng tôi mượn của một người trong họ (và bà ấy đã rất giận khi biết chúng tôi dùng bộ ảnh này để làm gì), còn chuyện Sợ là chúng tôi có một con gà con có ba chân mới nở. Mọi người nghe tiếng con gà con ba chân này và đòi xem. Chúng tôi bắt người lớn phải trả năm xu, trẻ con phải trả hai xu. Chúng tôi thu được hai chục đô la trước khi viện bảo tàng phải đóng cửa vì cái chết của nhân vật chính.
Bằng cách này hay cách khác chúng tôi dành dụm tiền để dành cho quỹ Giáng sinh, quỹ Bánh trái cây. Chúng tôi dấu tiền này trong một cái ví nhỏ có đính cườm dấu bên dưới một miếng gỗ có thể lắp vào hay tháo ra được dưới sàn gỗ, trong một cái lọ được dùng trong phòng, bên dưới giường của bà bạn tôi. Cái ví cườm này rất ít khi nào được lấy ra khỏi vị trí an toàn ngoại trừ để cất tiền vào, hoặc là lấy tiền ra mỗi Thứ Bảy; bởi vì mỗi thứ Bảy tôi được cho mười xu để đi xem phim. Bà bạn của tôi chưa bao giờ được đi xem phim, mà bà cũng chẳng muốn xem. “U thích nghe em kể chuyện hơn, Buddy ạ. Như thế u có thể tưởng tượng nhiều hơn. Thêm vào đó, một người ở tuổi như u không nên hoang phí cái nhìn của mình. Khi Chúa đến, u muốn được nhìn Ngài cho rõ.” Ngoài việc chẳng bao giờ được xem phim, bà cũng chẳng bao giờ: ăn ở nhà hàng, đi đâu xa nhà hơn năm dặm, nhận hay gởi điện tín, đọc cái gì khác hơn chuyện vui cười và Kinh Thánh, dùng mỹ phẩm, chửi thề, rủa người ta, nói láo và để cho một con chó đói bị đói. Còn đây là một số việc mà bà đã làm, bây giờ vẫn làm, dùng một cái xuổng đập chết một con rắn rung chuông lớn nhất ở tỉnh này (mười sáu khúc đuôi chuông), hút thuốc (lén), dạy chim hummingbird (thử thôi) cho đến khi nó đậu trên ngón tay của bà, kể chuyện ma (cả hai chúng tôi đều tin có ma) đáng sợ đến độ chúng tôi phát run trong trời tháng Bảy, nói chuyện một mình, đi bộ trong mưa, trồng hoa japonnicas đẹp nhất vùng, biết tất cả những bài thuốc trị bệnh linh nghiệm của người da đỏ, kể cả cái thuốc làm tiêu mụn cóc rất linh nghiệm.
Bây giờ ăn tối đã xong, chúng tôi đi ngủ trong một góc rất hẻo lánh trong nhà, nơi bạn tôi ngủ dưới một tấm mền nối bằng những mẩu vải khác nhau trên một cái giường sắt sơn màu hồng của hoa hồng, màu bà thích nhất. Lặng lẽ chìm đắm một cách thích thú của hai tên đồng lõa, chúng tôi lấy cái ví cườm từ chỗ dấu bí mật và trút tiền ra lên trên cái mền. Những tờ đô la giấy được cuốn tròn có màu xanh như những đọt cây non tháng Năm. Những đồng tiền năm mươi xu dịu dàng chất đủ nặng để neo cầu. Những đồng mười xu đáng yêu, là những đông tiền sinh động nhất, những đồng xu thật sự phát ra tiếng rủng rỉnh. Đồng năm xu, đồng hai mươi lăm xu, mòn nhẵn như đá cuội trong suối. Nhưng phần lớn, là một đống tiền một xu đáng ghét có mùi khó ngửi. Mùa hè vừa qua, những người trong nhà đã thuê chúng tôi một xu nếu chúng tôi đập chết hai mươi lăm con ruồi. Trời ạ, cái khốn khổ của tháng Tám: bầy ruồi bay lên thiên đàng! Tuy thế đó không phải là công việc mà chúng tôi hãnh diện. Và khi chúng tôi ngồi đếm tiền xu, chúng tôi có cảm tưởng chúng tôi đang đếm xác ruồi chết. Không người nào trong chúng tôi giỏi về con số; chúng tôi đếm châm chậm, quên mất con số, đếm lại. Theo con số của bà chúng tôi có $12.73. Theo con số của tôi, chúng tôi có 13 đồng. “Tôi hy vọng là em đếm sai, Buddy. Chúng ta không nên đùa với con số mười ba. Mấy tấm bánh sẽ bị xẹp. Hay phải chôn một người nào đó vào nghĩa địa. Tại sao, tôi không có ý định rời khỏi giường trong ngày mười ba.” Điều này đúng sự thật: bà luôn luôn ở trên giường không đi đâu trong ngày mười ba. Vì thế để cho an toàn, chúng tôi lấy ra một xu và ném ra ngoài của sổ.