December 17, 2008
-
Part 2Trong tất cả nguyên liệu để làm bánh trái cây, rượu whiskey là món đắt tiền nhất, và cũng khó tìm nhất: luật của tiểu bang cấm bán ruợu whiskey. Nhưng tất cả mọi người đều biết là bạn có thể mua một chai ở tiệm của ông Haha Jones. Và ngày hôm sau, sau khi mua xong các thứ cần dùng, chúng tôi đi đến tiệm của ông Haha, một quán cà phê “đầy tội lỗi” (theo ý kiến công cộng) có bán cá chiên và có cả khiêu vũ, ở gần bờ sông. Chúng tôi đã có lần đến chỗ ấy, và cũng cùng một lý do; nhưng những năm trước chúng tôi chỉ mua bán với vợ của ông Haha, một người đàn bà thổ dân da màu sậm tóc tẩy trắng với dáng ngồi của một người kiệt sức. Thật tình, chúng tôi chẳng bao giờ để mắt đến chồng của bà, mặc dù chúng tôi nghe nói là ông ta cũng là thổ dân Mỹ. Một người khổng lồ có vết sẹo mỏng cắt ngang mặt. Người ta gọi ông là Haha bởi vì ông luôn có vẻ buồn bã, một người không bao giờ cười. Lúc chúng tôi đến gần tiệm cà phê (một ca bin bằng gỗ khá lớn được trang trí từ bên trong lẫn bên ngoài bằng những sợi dây xích có gắn nhiều bóng đèn đủ loại màu sắc rực rỡ và nó đứng bên cạnh bờ sông bùn lầy dưới bóng những tàn cây dọc theo bờ sông có rong rêu mọc trên các cành cây trông giống như sương mù màu xám. Kể cả Queenie cũng thôi nhảy tung tăng và đi sát vào chúng tôi. Có người đã bị giết ở quán cà phê của Haha. Bị cắt ra thành từng mảnh nhỏ. Và bị đập đầu. Có một vụ án sẽ được xử vào tháng sau. Thông thường những chuyện này chỉ xảy ra vào ban đêm khi những bóng đèn màu tạo ra những hình dáng dị dạng và cái máy hát phát ra những lời than thở. Ban ngày, quán của Haha có vẻ tồi tàn và vắng vẻ. Tôi gõ cửa, Queenie sủa, bạn tôi gọi: “Bà Haha ơi? Có người nào trong nhà không?”
Có tiếng chân người đến gần. Cửa bật mở. Trái tim chúng tôi lộn nhào. Đó là ông Haha Jones! Và ông ta đích thị là một người khổng lồ ; đúng là ông ấy có vết sẹo; và ông ta không cười. Không, ông ta nhìn chúng tôi trân trối bằng cặp mắt xếch như của quỷ Satan và đòi biết lý do: “Các người muốn gặp Haha để làm gì?”
Trong một thoáng, chúng tôi gần như tê liệt nên không thể mở mồm. Nhưng ngay lập tức, bạn tôi có phần nào lấy lại can đảm; giọng của bà nghe thều thào: “Xin ông Haha làm ơn, bán cho chúng tôi một lít rượu whiskey loại tốt nhất.”
Cặp mắt của ông ta càng có vẻ xếch hơn. Bạn có thể ngờ không? Haha mỉm cười! Còn cười to nữa chứ. “Trong hai người ai là người uống rượu?”
“Chúng tôi mua rượu để làm bánh trái cây, ông Haha. Để nấu ăn.”
Điều này làm ông dịu xuống. Ông ta cau mặt. “Không nên phí rượu whiskey hảo hạng bằng cách này.” Tuy thế ông vẫn đi vào bóng tối bên trong quán cà phê và vài giây sau ông mang ra một chai rượu, không dán nhãn hiệu, có màu vàng của hoa cúc. Ông giơ lên cho chúng tôi xem nó sủi bọt lấp lánh trong ánh nắng và nói: “Hai đô la.”
Chúng tôi gom tất cả tiền xu tiền cắc để trả tiền cho ông. Bỗng nhiên, khi ông ta lắc mấy đồng xu loảng xoảng trong tay như lắc mấy hột xí ngầu, nét mặt ông bỗng trở nên dịu dàng. “Thế này nhé,” ông đề nghị, bỏ tiền trở lại vào ví cườm của chúng tôi, “hai bà cháu chỉ cần mang đến cho tôi một tấm bánh thay vì trả tiền.”
Bạn tôi nói lúc trên đường về nhà, “ông ấy tốt bụng quá. Chúng ta sẽ cho nhiều nho khô vào cái bánh của ông.”
Cái lò màu đen, chất đầy than và củi cháy sáng rực như một quả bí rợ có đèn thắp bên trong. Khuấy trứng, thìa cạo vét chung quanh vành tô chứa đường và bơ, mùi vanila bay ngọt trong không khí, mùi gừng tăng thêm hương vị; mùi bơ tan, mùi gia vị thơm ngát mũi tràn ngập căn bếp, lan tỏa khắp nhà, bay tràn ra thế giới bên ngoài theo ống khói. Trong bốn ngày, chúng tôi sẽ làm xong. Ba mươi mốt cái bánh, tẩm rượu whiskey, phơi bày ở vành cửa sổ và trên ngăn kệ.
Những tấm bánh này cho ai?
Bạn bè. Không nhất thiết là bạn bè láng giềng chung quanh: thật ra, phần lớn dành cho những người chúng tôi chỉ gặp may ra một lần, có khi chưa lần nào gặp. Những người chúng tôi tưởng tượng. Thí dụ như Tổng thống Roosevelt. Thí dụ như Mục sư và bà vợ J. C. Lucey, những nhà truyền giáo đạo Baptist đi đến Borneo đã giảng đạo ở vùng chúng tôi ở hồi mùa đông năm ngoái. Hay người mài dao nhỏ nhắn đến làng chúng tôi một năm hai lần. Hay là Abner Packer, người tài xế của chuyến xe buýt sáu giờ sáng từ Mobile, đã vấy tay chào chúng tôi khi ông chạy vèo ngang qua thả sau lưng đám bụi mù trời. hay là cặp vợ chồng trẻ Wistons, người ở California có một buổi chiều xe của họ bị hỏng ngay trước nhà chúng tôi và họ đã nói chuyện vui vẻ với chúng tôi một giờ đồng hồ trước hiên nhà (anh Wiston chụp ảnh chúng tôi, tấm ảnh vỏn vẹn mà chúng tôi được chụp). Bởi vì bạn của tôi thẹn thùa và nhút nhát với tất cả mọi người chỉ trừ người lạ và những người lạ này, có vẻ những người này thật sự là bạn của chúng tôi? Tôi nghĩ là đúng như thế. Thêm vào đó, quyển kỷ niệm chúng tôi vẫn còn giữ những thiệp cám ơn bằng giấy đặc biệt của tòa Bạch cung, những lần thỉnh thoảng trò chuyện từ California đến Borneo, những tấm bưu thiếp rẻ tiền của ông mài dao, làm chúng tôi thấy gần gủi với diễn biến của thế giới bên ngoài căn bếp của chúng tôi với cái nhìn ngừng lại ở bầu trời.
Bây giờ có một cành cây vả trơ trụi của tháng Mười Hai đang cọ vào cửa sổ. Căn bếp trở nên trống rỗng vì tất cả những cái bánh đã được gửi đi; ngày hôm qua chúng tôi chở những cái bánh cuối cùng đến bưu điện, nơi mà giá tiền tem đã làm chúng tôi cháy túi. Điều này làm tôi buồn bã vô cùng, nhưng bạn tôi cứ nhất định phải ăn mừng – bằng khoảng 5 phân rượu whiskey còn lại trong chai của Haha. Queenie được một muổng đầy rượu trong cái tô cà phê (nó thích uống cà phê có mùi chicory và pha rất đậm). Phần còn lại chúng tôi chia ra làm hai vào trong hai cái ly dùng để chứa jelly. Cả hai chúng tôi đều rất gườm chuyện uống rượu whiskey nguyên chất; chỉ nếm nó cũng đủ mang lại vẻ mặt đầy hư hỏng và những cái rùn vai chua chát. Nhưng từng chút từng chút một chúng tôi bắt đầu cất tiếng hát, hai chúng tôi hát cùng một lúc nhưng hai bài khác nhau. Tôi không thuộc lời bài hát mà tôi đang hát, chỉ có: Đến đây đi, đến buổi khiêu vũ của những người giỏi nhất của thành phố tăm tối. Nhưng tôi có thể nhảy múa: và đó là cái nghề mà tôi muốn làm khi tôi lớn lên, một người khiêu vũ biểu diễn bộ môn “táp” như trong phim ảnh. Bóng tôi vui vẻ nhảy múa trên tường; giọng chúng tôi làm rúng động cả chén đĩa; chúng tôi cười khúc khích: như thể có bàn tay vô hình nào cù cho chúng tôi bị nhột. Queenie lăn ngửa người, bốn chân quều quào trong không khí, có cái gì giống như nụ cười trên cái mõm đen của nó. Trong lòng tôi, tôi thấy ấm áp và sáng lóe như những thanh củi đang cháy, tự do như gió thổi qua ống khói. Bạn tôi xoay vòng theo điệu luân vũ waltz chung quanh bếp lò, bà nắm nhéo cái mép váy như thể đó là một cái áo dạ hội: Hãy chỉ cho tôi đường về nhà, bà hát, đôi giày tennis của bà kêu rin rít trên nền nhà. Hãy chỉ cho tôi đường về nhà.
Hai người trong họ bước vào nhà bếp. Giận dữ. Càng quyền hành hơn với ánh mắt đầy vẻ khiển trách và lời nói có thể làm bỏng tuột da. Lắng tai nghe những lời họ nói, những chữ xô vào nhau bằng một giọng phẫn nộ: “ Một đứa trẻ bảy tuổi! Sặc sụa mùi whiskey! Bà có điên không? Cho thằng bé bảy tuổi uống rượu! chắc chắn là phải khùng điên! Trên đường đi đến chỗ diệt vong! Có nhớ người chị họ tên Kate không? Chú Charlie? Em rễ của chú Charlie? Nhục nhã! Tai tiếng! Mất mặt! Quỳ xuống và cầu nguyện xin Chúa tha thứ tội!”
Queenie rón rén chuồn xuống phía dưới cái bếp lò. Bạn tôi cúi gằm đầu nhìn đôi giày của bà, cằm bà run rẩy, bà kéo váy hỉ mũi và chạy vào phòng. Rất lâu sau khi cả làng đã đi ngủ và căn nhà trở nên im lặng ngoại trừ tiếng chuông đồng hồ và tiếng thì thào của ngọn lửa đang tàn, bà úp mặt khóc vào cái gối và nó đã ướt đầm đìa như một cái khăn tay của bà góa phụ.
“Đừng khóc,” tôi nói, ngồi ở cuối giường của bà và run rẩy mặc dù tôi mặc bộ đồ ngủ bằng vải rất dầy có mùi của thuốc xi rô ho từ hồi mùa đông năm trước, “đừng khóc nữa,” Tôi van nài, chọc phá mấy ngón chân của bà, cù bàn chân của bà, “u đã quá tuổi khóc nhè rồi.”
“Đó là tại vì,” bà nấc, “ U đã quá già. Vừa già vừa đáng bị chê cười.”
“Không có chê, chỉ có cười thôi. U vui cười nhiều hơn bất cứ người nào. Nghe em nói này. Nếu u không nín khóc, ngày mai u sẽ mệt và không thể đi đốn cây Giáng sinh.”
Bà ngồi thẳng lên. Queenie nhảy lên giường (nó không được phép leo lên chỗ này) và liếm má của bà. “U có biết một chỗ chúng ta có thể tìm thấy một cái cây thông Giáng sinh rất đẹp, Buddy. Và cả loại cây holy nữa. Trái của nó to bằng con mắt của em. Chỗ ấy ở mãi trong rừng. Xa hơn những chỗ mình đã đi. Bố của u thường hay mang về cho chúng tôi những cây Giáng sinh ở chỗ ấy: ông khiêng trên vai của ông. Đã năm mươi năm về trước. Còn bây giờ: U không thể chờ đến sáng mai.”
Buổi sáng. Sương giá đóng lóng lánh trên cỏ; mặt trời, tròn như quả cam và màu cam như mặt trăng lúc trời mùa hè, treo lơ lửng phía chân trời đánh bóng cả rừng cây màu bạc của mùa đông. Có tiếng gà rừng gáy. Và tiếng của một con heo rừng lạc bầy kêu trong bụi rậm. Không mấy lâu, chúng tôi phải bỏ con bọ ở bên bờ một con suối cạn nước chỉ lấp xấp đầu gối nhưng chảy xiết. Queenie lội xuống suối trước, lõm bõm băng ngang suối sủa gâu gâu như trách phiền dòng nước chảy quá mạnh và nước lạnh đủ để làm người ta bệnh sưng phổi. Chúng tôi theo sau, giày và dụng cụ (một cái rìu, và một cái túi đeo lưng) được nâng lên khỏi đầu. Đi thêm chừng một dặm nữa, gai nhọn của trái cây hay của cành hoa vướng mắc vào quần áo của chúng tôi; những gai màu nâu sạm của cành thông chiếu sáng nhờ vào những loại nấm màu và những cọng lông chim rụng. Ở chỗ này hay đằng kia, có tiếng sột sọat, cái tiếng vỗ cánh, mà tiếng kêu lảnh lót đầy mê đắm gợi cho chúng tôi nhớ rằng không phải tất cả các loài chim đều bay về phương Nam để trú ẩn. Luôn luôn có con đường ngoằn ngoèo xuyên qua những vũng nắng màu vàng chanh và những đường hầm tối tăm dưới những cành cây đan ngón vào nhau. Chúng tôi phải băng qua thêm một con suối nữa: làm khuấy động một đàn cá trau (trout) đang thổi bọt chung quanh chúng tôi, những con ếch to bằng cái đĩa nhảy bì bõm, và đàn rái cá đang xây tổ. Đứng bên kia bờ suối, Queenie quẩy người cho bắn sạch nước và run rẩy. Bạn tôi cũng run rẩy: không phải vì lạnh mà vì quá phấn khích. Một đóa hoa của chùm hoa cũ kỹ tàn tạ trên nón của bà bị rụng một cánh lúc bà ngẩng đầu hít thở không khí đậm mùi thông tươi. “Chúng ta sắp đến rồi; em có ngửi thấy mùi không, Buddy?” bà nói, làm như chúng tôi đang đến gần biển vậy.
Comments (2)
wow such patience… I am thinking of translating some short stories too, but from Viet to English – which might be a little awkward since the stories probably were translated from English LOL (viet sites never give references~)
thanks